... Kể từ sau khi giáo chủ Muhammad qua đời (632), nhiều nhà lãnh đạo Hồi Giáo đầy tham vọng đã dùng Hồi Giáo làm công cụ để tranh giành quyền lực và làm bá chủ nhiều vùng rộng lớn trên thế giới, gây thảm họa cho nhân loại và ngay cả cho Hồi Giáo. Thế lực này đã bị các quốc gia Tây phương đánh bại sau khi Thế Chiến thứ I chấm dứt, nhưng một số lãnh tụ và tín đồ Hồi Giáo quá khích lúc nào cũng nghĩ rằng họ phải phục hồi lại những thời vàng son của Hồi Giáo và sẵn sàng xử dụng bất cứ phương thức nào để đạt mục tiêu đó, bất chấp những hậu quả.
Nhìn lại lịch sử sẽ giúp chúng ta hiểu được các biến cố đẫm máu mà các nhóm Hồi Giáo quá khích đã và đang gây ra, và phương thức mà Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương đang xử dụng để đối phó.
SỰ LAN RỘNG NHANH CHỐNG CỦA HỒI GIÁO
Từ khi có nhân loại đến nay, trên thế giới đã xuất hiện nhiều tôn giáo gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của nhiều người như Do Thái Giáo, Bàlamôn và Ấn Giáo, Nho Giáo, Phật Giáo, Kitô Giáo..., nhưng chưa có tôn giáo nào phát triển nhanh và gây nhiều sóng gió trên thế giới bằng Hồi Giáo.
Sau khi giáo chủ Muhammad qua đời, bốn người kế vị đã nối tiếp nhau mở rộng đế quốc Hồi Giáo và gây ra nhiều biến loạn, đó là Abu Bakr (632-634), Umar Khattab (634-644), Uthman (644-656) và Ali Talib (656-662). Sau đó là triều đại Umayyad kéo dài đến 1250.
Tiếp theo, ba đế quốc khác của Hồi Giáo đã được thiết lập và mở rộng, đó là Đế Quốc Mughul (1162-1831), Đế quốc Ottoman (1289-1924) rồi Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779). Ba đế quốc này đã phát triển song hành với nhau.
Abu Bakr (632-634), người kế vị thứ nhất lên nắm quyền đã ban hành ngay hai Sắc Lệnh: (1) Cấm không ai được tự xưng là tiên tri, vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng được Thiên Chúa sai đến trên trần gian và (2) Cấm các tín đồ Hồi Giáo không được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic confederacy). Họ gọi đạo Hồi là "đức tin của bạo lực" (a violent faith), một "tôn giáo quân phiệt" (a militaristic religion).
Trong vòng 10 năm, quân Hồi Giáo đã chiếm trọn bán đảo Arabia (gồm Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar và Emerite), Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía tây Iran.
Umar Khattab (634-644) kế vị tự xưng là "Tư lệnh của các tín đồ" (Commander of the faithful), đem quân chiếm Iran (Sassanian), thánh địa Jerusalem và các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và Maroc. Nhưng khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Iran đâm chết.
Uthman (644-656) kế vị thực hiện những chiến công oanh liệt, đem quân chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải, rồi tiến về phía Tây chiếm Libya và đi về phía đông chiếm Armenia ở Âu Châu, tiến vào miền Caucase của Nga. Một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay). Đến đây Hồi Giáo đã thành một đế quốc kéo dài từ Âu sang Á và Bắc Phi. Nhưng Uthman lại bị một nhóm chiến binh bất mãn giết và đưa Ali Talib (656-662) lên làm Caliph thứ tư của Hồi Giáo.
Ali Talib (656-662) vừa lên ngôi thì bị Muawiyah là người nhà của Uthman chỉ trích là đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662 Ali và con trai cả của ông là Hassan cũng đã bị ám sát.
Muawiyah (661-680) và triều đại Umayyad. Muawiyah là anh rễ của Muhammad lên cầm quyền tuyên bố mình là Caliph đầu tiên của triều đại Umayyad (661-750). Ông dời thủ đô từ Mecca đến Damascus của Syria, mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ, đó là Triều Đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo dưới danh xưng là Caliph (661-1250).
Ông chủ trương cai trị dân bằng giai cấp quân sự (military aristocracy), đó là giai cấp thống trị (a ruling class). Ông chết vì bệnh năm 680, cai trị được 19 năm.
THẢM HỌA TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20
Khi triều đại Umayyad sắp chấm dứt, ba đế quốc Hồi Giáo khác đã nổi lên chia nhau thống trị thế giới.
1.- Đế Quốc Mughul: Mughul là tiếng để gọi người Mông Cổ (Mongol). Đế quốc này do Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227) lãnh đạo, lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni nên từ đó về sau các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á, tiến đánh Trung Quốc. Năm 1478 chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Năm 1747 chiếm Afghanistan và cai trị nước này 100 năm. Cho đến năm 1831, khi người Anh chiếm Ấn Độ, đế quốc Mughul mới chấm dứt trên lục địa Châu Á.
2.- Đế quốc Ottoman (1289-1924) phát xuất từ bộ lạc Osman ở Thổ nhĩ Kỳ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Tháng 4 năm 1453, quân Hồi Ottoman chiếm thủ đô của đế quốc Byzantine, một đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương, là thành phố Constantinople và xóa sổ đế quốc này. Sau đó, mở cuộc thánh chiến với giáo phái Shiite, chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia. Qua thế kỷ 16 chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo, Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Từ đó đế quốc Ottoman trở thành cơ quan quyền lực của thế giới (world power).
3. Đế quốc Safavids (1501-1779): Đây là một nhánh của giáo phái Shiite do Esmail lãnh đạo, xuất phát từ miền tây nam biển Caspian, khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan và xưng là "Vua Hồi Giáo" (Sha/Sultan). Ông ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi thuộc giáo phái Shiite. Sau đó quân Safavids tấn công thành phố Anatolia của đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni, chiếm Iran và ra lệnh cho cả nước Iran phải theo Shiite, ai bất tuân đều bị giết. Các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu. Từ đó, các vua Hồi Giáo Iran được gọi là Sha hay Sultan.
SỰ VÙNG DẬY CỦA TÂY PHƯƠNG
Đến thế kỷ 18, các nước Âu Châu trở nên hùng mạnh và bắt đầu đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo. Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman. Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm lại toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul.
Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.
Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia, Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.
Từ tháng 11/1915 đến tháng 3/1916, Anh và Pháp đã bí mật thảo luận về một kế hoạch kiểm soát Vùng Trung Đông và tiến tới đánh bại đế quốc Ottoman. Nga chỉ tham gia một phần nhỏ. Một hiệp ước đã được đại diện của Pháp là François Georges-Picot và Anh là Sir Mark Sykes ký kết ngày 16.5.1916 nên được gọi là Hiệp Ước Sykes-Picot, nhưng tên chính chức là Hiệp Ước Tiểu Á (Asia Minor Agreement). Hiệp ước này dành cho Anh kiểm soát vùng đất giữa biển Địa Trung Hải và sông Jordan (nay là nơi tranh chấp giữa Do Thái và Palestine), nước Jordan, nam Iraq và hai cửa biển Haifa và Acre để đi ra Địa Trung Hải. Pháp kiểm soát đông nam Thổ Nhỉ Kỳ, bắc Iraq, Syria và Lebanon. Nga được dành cho Istanbul, Dãi Thổ Nhĩ Kỳ và khu vực thuộc Vương Quốc Ottoman (Ottoman Armenian vilayets).
Qua nhiều cuộc vận động ráo riết của người Do Thái lưu vong, ngày 2.11.1917 Ngoại Trưởng Anh là Arthur James Balfour tuyên bố sẽ cho lập một nước Do Thái tại vùng đất nơi người Palestine đang cư ngụ. Đây là vùng đất ngày xưa người Do Thái cư ngụ đã bị quân Hồi Giáo đánh chiếm và đuổi người Do Thái đi, đó là vùng phía tây sông Jordan. Năm 1922, chính phủ Anh đã chia vùng này ra làm 2 vùng: Vùng phía tây sông Jordan kéo ngang qua tới Địa Trung Hải được giao cho người Do Thái. Vùng phía đông sông Jordan, thành lập một quốc gia A-rập mới lấy tên là Transjordan. Đó là phần đất dành cho người Palestines, được gọi là nước Palestine-A-rập. Đây là nguyên nhân đưa tới cuộc tranh chấp không bao giờ giải quyết được giữa người Do Thái và người Palestine từ 1947 đến nay.
SỐ PHẬN CỦA HỒI GIÁO
Ngoài cuộc tranh chấp giữa người Palestine và người Do Thái, từ sau Thế Chiến II đến nay, có rất nhiều lãnh tụ tôn giáo cũng như chính trị Hồi Giáo vẫn nuôi mộng tái lập lại một đế quốc Hồi Giáo gióng như Đế Quốc Ottoman ngày xưa, chẳng hạn như Ruhollah Khomeini và Ayatollah Khomeini của Iran, Saddam Hussein của Iraq, Gamal Abdel Nasser Hussein và Hosni Mubarak của Ai-cập, Muammar Gaddafi của Libya hay Bashar al-Assad của Syria, v.v. Al-Baghdadi là một biểu tượng mới nhất. Để đối phó với những tham vọng này, Hoa Kỳ và các quốc gia Tây phương đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để khống chế hay loại bỏ. Israel được coi là một công cụ hữu hiệu. Một phương thức khác là phân chia khối Hồi Giáo ra thành từng mãnh nhỏ dựa trên hai yếu tố chính là giáo phái và sắc tộc, để làm giảm thiểu sức mạnh. Libya, Iraq, Syria và Afghanistan rồi sẽ được phân chia thành nhiều khu tự trị, không còn là những quốc gia thống nhất nữa.
Có hai lực lượng của Hồi Giáo được coi là nguy hiểm nhất, đó là tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo (HĐHG) và Al-Qaeda. Al-Quaeda chủ trương dùng bạo lực, còn HĐHG dùng diễn biến hòa bình.
Chủ nghĩa khủng bố của al-Qaeda chỉ một hình thái phản ứng của kẻ yếu đối với kẻ mạnh khi không còn phương thức nào khác. Nhưng nó chỉ có thể tạo ra những tình trạng bất ổn chứ không thể xây dựng một thế đứng vững mạnh. Tổ chức HĐHG không đi con đường đó mà dùng phương thức Mỹ thường dùng để làm thay đổi những chính quyền không theo họ, đó là đòi thực hiện dân chủ tự do và công bằng xã hội. Các nhà quan sát nói rằng nếu có bầu cử tự do, HĐHG sẽ thắng. Nhưng việc Mỹ lật đổ Mubarak không phải là để thực hiện tự do dân chủ mà để thay thế bằng một Mubarak khác có khả năng bảo vệ quyền lợi của Mỹ hơn. Rốt cuộc, dù dùng phương thức khủng bố hay diễn biến hòa bình, phong trào Hồi Giáo cực đoan vẫn không thể nắm được chính quyền ở bất cứ quốc gia nào.
Thời đại có thể thiết lập một đế quốc Hồi Giáo như Đế quốc Ottoman, thời đại dùng giáo quyền để xây dựng thế quyền, sẽ không bao giờ trở lại nữa. Nền văn hóa của Hồi Giáo đã quá lỗi thời, nếu không được cải tiến thì không thể vươn lên để có thể theo kịp đà tiến của nhân loại được.
0nhận xét:
Đăng nhận xét